50 NĂM CHIẾN THẮNG TÂY NGUYÊN
Tháng 3 năm 1975, Chiến dịch Tây Nguyên nổ ra, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Với nghệ thuật quân sự tài tình, đặc biệt là chiến thuật nghi binh xuất sắc, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khiến địch hoàn toàn bất ngờ, đánh một đòn chí mạng vào hệ thống phòng thủ của chính quyền Sài Gòn.
Bối cảnh chiến lược
Năm 1974, Quân đội Việt Nam Cộng hòa hứng chịu những thất bại nặng nề trên chiến trường, nhưng vẫn còn trong tay hàng triệu quân, được trang bị vũ khí hiện đại, triển khai trên bốn quân khu từ Trị Thiên đến đồng bằng sông Cửu Long. Trong tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã cân nhắc cẩn trọng để tìm ra hướng đột phá chiến lược. Tây Nguyên, với vị trí trọng yếu nhưng lại có những điểm yếu trong hệ thống phòng thủ của địch, được chọn làm hướng tiến công chủ đạo. Trong đó, Buôn Ma Thuột - trung tâm quan trọng của Nam Tây Nguyên nhưng lại cách xa các trung tâm quân sự lớn, trở thành mục tiêu mở màn cho chiến dịch.
Bản đồ diễn biến Chiến dịch Tây Nguyên, tháng 3 năm 1975
Việc lựa chọn Buôn Ma Thuột có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đánh chiếm Buôn Ma Thuột sẽ tạọ ra bàn đạp giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, làm rối loạn hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên, đe dọa đồng bằng ven biển miền Trung và mở ra hướng tiến công quan trọng vào Sài Gòn.
Nghệ thuật nghi binh tài tình
Nhằm giữ bí mật và tạo yếu tố bất ngờ, từ đầu năm 1975, lực lượng chủ lực của ta tại Tây Nguyên đã triển khai một kế hoạch nghi binh rất tài tình, đánh lạc hướng sự chú ý của địch về phía Bắc Tây Nguyên. Kế hoạch này được Trung tướng Khuất Duy Tiến chấp bút, với các biện pháp nghi binh tài tình như: Điều động lực lượng giả tạo áp lực lên Kon Tum - Pleiku, khiến địch nghĩ rằng đây mới là hướng tấn công chính; Tăng cường các hoạt động trinh sát, triển khai quân ở những khu vực không phải trọng điểm để đánh lừa tình báo địch; Bố trí đội hình cơ động linh hoạt, che giấu lực lượng thực sự tập trung vào Buôn Ma Thuột. Nhờ đó, khi chiến dịch chính thức bắt đầu, địch hoàn toàn bất ngờ và không kịp trở tay.
Chiến thắng Buôn Ma Thuột - Đòn điểm huyệt quyết định
Thực hiện kế hoạch đã đề ra, ngày 10/3/1975, Quân giải phóng chính thức tấn công Buôn Ma Thuột. Với sức mạnh áp đảo và chiến thuật hợp lý, quân ta nhanh chóng làm chủ trận địa, đập tan hệ thống phòng thủ của địch. Chỉ sau hai ngày, thị xã Buôn Ma Thuột hoàn toàn được giải phóng.
Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975: “Chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Nam Tây Nguyên”.
Nguồn: Tư liệu Bảo tàng Đắk Lắk
Quân Ủy Trung ương họp bàn cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975
Nguồn: Tư liệu Bảo tàng Đắk Lắk
Thường vụ tỉnh ủy Đắk Lắk thông qua kế hoạch tiến công và nổi dậy trong trận đánh Buôn Ma Thuột.
Nguồn: Tư liệu Bảo tàng Đắk Lắk
Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã làm thay đổi cục diện chiến trường, dưới áp lực của ta, quân địch hoảng loạn rút chạy khỏi Tây Nguyên, nhưng trên đường tháo chạy, chúng tiếp tục bị ta tiêu diệt gọn.
Ý nghĩa chiến lược và bài học quân sự
Chiến dịch Tây Nguyên không chỉ là một trận thắng quan trọng, mà còn thể hiện nghệ thuật quân sự Việt Nam với chiến thuật nghi binh, đánh lừa địch đầy sáng tạo. Đây là một minh chứng cho sự chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang. Việc lựa chọn đúng mục tiêu, thực hiện kế hoạch nghi binh tài tình và phát huy tối đa yếu tố bất ngờ đã giúp ta giành thắng lợi vang dội, tạo đà tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam. Sau thất bại tại Tây Nguyên, quân đội Việt Nam Cộng hòa tiếp tục rơi vào thế bị động, kéo theo hàng loạt thất bại tiếp theo, sau chưa đầy hai tháng, chính quyền Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ.
Chiến thắng Tây Nguyên là minh chứng hùng hồn cho trí tuệ quân sự Việt Nam - nơi nghệ thuật nghi binh được vận dụng một cách xuất sắc, tạo nên một bước ngoặt lịch sử trên con đường giải phóng dân tộc.
Bảo Trâm