SƯU TẬP DỤNG CỤ ĐÁNH BẮT CÁ CỦA DÂN TỘC TẠI CHỖ Ở ĐẮK LẮK

Trong những hoạt động kinh tế đảm bảo đời sống các dân tộc tại chỗ ở Đắk Lắk như săn bắt thú rừng, hái lượm, … thì nhiều nơi đánh bắt cá là hoạt động phổ biến, đem lại nguồn lợi không nhỏ cho người dân, bổ sung thêm phần thực phẩm tươi sống, giàu chất đạm cho bữa ăn mỗi gia đình.

Mỗi một dân tộc đều có những công cụ đánh bắt cá riêng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh sống của mình. Các công cụ này thể hiện khả năng thích ứng, sáng tạo và sự khéo léo của con người để có thể đánh bắt được nhiều loại thủy sản ở những địa hình khác nhau.


Đối với các dân tộc tại chỗ ở Đắk Lắk, việc đánh bắt cá ở những vùng gần sông suối thường diễn ra trong những ngày nông nhàn, người chủ làng sẽ đưa ra ý kiến để chọn khu vực đánh bắt cá, rồi cả buôn sẽ cùng ngăn lại một đoạn suối, tát cạn và cùng nhau bắt cá. Họ dùng nơm để úp, dùng rổ để xúc cá và bỏ cá vào những chiếc giỏ đeo bên hông. Vào mùa khô nước cạn, người ta thường dùng cây rừng có độc để làm cho cá bị say thuốc. Cá, cua bị say thuốc sẽ nổi lên mặt nước, chỉ việc vớt lên. Làm cách này cá chết nhiều nên một năm chỉ có thể thuốc một, hai lần trên một khúc sông, suối cạn. Ở những quãng sông to, nước sâu thì cách đánh cá phổ biến là dùng chài, ngay cả những người Mnông Gar, Mnông Chil trước đây ở trên núi cũng có chài và thường xuyên xuống các dòng sông, dòng suối đánh cá. Lưới này được đan bằng sợi cây prang (một loại cây lá dài tương tự như lá nón) trồng trong rẫy tước ra. Vì lưới quá nhẹ không thể chìm khi quăng lưới đánh cá, họ đã buộc xung quanh lưới những mảnh đồng, hoặc những hòn gốm. Dùng cần câu, câu quăng cũng phát triển ở cư dân tại chỗ nơi đây.



Dùng cây rừng có độc để làm cho cá, cua bị say thuốc


Người Mnông sử dụng thuyền độc mộc quăng chài trên hồ Lắk để đánh bắt cá. Ở ven hồ, nơi nhiều cá nhỏ, người ta còn lấy rong đắp thành bờ, vây chỗ có cá lại. Sau đó, thu hẹp dần diện tích bằng cách dồn bờ, rồi dùng vợt xúc. Cũng có nơi vào cuối mùa khô, người dân đốt bãi, lúc có mưa nước dâng lên, cá đi vào ăn tro thì dùng đơm úp cá. Dân làng còn rủ nhau xếp đá, đắp những con đập nhỏ, dùng nứa đan những tấm rào chặn ngang dòng nước, đặt đó để bắt cá. Các dụng cụ đánh bắt cá được đan bằng tre, mây: hom, làm bằng que tre nhọn, sắp hình chóp, chừa lối cho cá, lươn,… bơi vào nhưng không ra được, thường được đặt ở những nơi ngược dòng nước chảy để cá, tôm, lươn,… chui vào.



Cư dân nơi đây không những chỉ sử dụng vỏ trái bầu khô đựng nước, làm chõ hong xôi, bát ăn cơm, muôi múc,… mà còn dùng làm giỏ đựng cá, giỏ đựng mồi câu khi đi đánh bắt cá ngoài kênh, suối, đồng ruộng,... Bầu dùng lấy vỏ là giống bầu thắt cổ bồng dạng nậm. Phần trên nhỏ, eo thon, phần dưới phình to, đáy bằng. Từ những trái bầu già, họ bỏ ruột, ngâm bùn, chùi nhọ nồi cho đen bóng và bắt đầu khoét gọt, làm hom,… phù hợp với mục đích sử dụng của họ.

Ban đầu, việc đánh bắt cá chỉ để bổ sung vào bữa ăn, làm mắm hoặc phơi khô làm thức ăn dự trữ trong mùa mưa. Sau này đồng bào đã biết dùng cá, tôm,… để đổi lấy muối, vải, lúa,… Vì vậy, ở một vài nơi vào mùa xuân nhiều người chuyên đi bắt cá sấy khô để dùng hay làm vật trao đổi.


Nhằm giới thiệu đến du khách Nghề đánh bắt cá của các dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời tại Đắk Lắk, bộ sưu tập dụng cụ đánh bắt cá gồm 41 đơn vị hiện vật, trong đó: 17 đơn vị hiện vật của dân tộc Êđê; 15 đơn vị hiện vật của dân tộc Mnông có và 09 đơn vị hiện vật của dân tộc Giarai.




Sưu tập dụng cụ đánh bắt cá của các dân tộc tại chỗ tỉnh Đắk Lắk có ý nghĩa và giá trị không chỉ về mặt vật chất mà còn ở giá trị tinh thần, đặc biệt trong xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi mà các vật dụng này không còn được sử dụng phổ biến vì mất nhiều thời gian sản xuất mà năng suất đánh bắt thấp. Tuy nhiên, những vật dụng này lại không gây hại tới môi trường sinh sống của các loài thủy sản. Hiện nay, với việc đánh bắt cá tràn lan, sử dụng những phương tiện đánh bắt mang tính hủy diệt cả cá nhỏ và những loài thủy sản khác như: lưới mắt nhỏ, lưới điện, nổ mìn,… Vì vậy, những hiện vật trong sưu tập sẽ là nguồn sử liệu quan trọng nhắc nhở con người luôn nhớ đến hoạt động kinh tế thuở ban đầu của mình để từ đó khai thác đi đôi với cải thiện, bồi đắp.

Trần Hằng