Ý NGHĨA CỦA CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN VÀ MỘT SỐ TƯ LIỆU, HÌNH ẢNH TẠI BẢO TÀNG ĐẮK LẮK
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 03/9/1945, Chính phủ lâm thời tổ chức phiên họp đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống,…”.
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội và ghi rõ: Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16,17 tháng 8 năm 1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng Nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ Nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên; tiếp theo đó, ban hành Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 02/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51-SL nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử. Công tác chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài; trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội hết sức khó khăn. Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23/12/1945, nhưng để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải, có thêm thời gian cho công tác chuẩn bị và các ứng cử viên có điều kiện nộp đơn, đi vận động tranh cử. Ngày 18/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày chủ nhật 06/01/1946.
Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà Nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”.
Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trên cả nước, kể cả các vùng đang có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở Hà Nội đã có 91.95% cử tri của 74 khu nội thành và 118 làng ngoại thành đi bỏ phiếu trong không khí tràn đầy phấn khởi của ngày hội dân chủ. Kết quả có 06 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất (98.4%).
Cuộc tổng tuyển cử được tiến hành sôi nổi trên khắp cả nước. Riêng các tỉnh phía Bắc, mặc dù phải đối phó với âm mưu phá hoại hết sức tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng cuộc Tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Các tỉnh phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, cuộc bầu cử diễn ra dưới bom đạn rất ác liệt của giặc Pháp.
Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung còn tuyệt đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc tổng tuyển cử đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ, 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Trong thành phần của Quốc hội có đại biểu đại diện cho cả ba miền Bắc – Trung – Nam, các giới từ những nhà cách mạng lão thành, thương gia, nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa, đến đại biểu các thành phần tôn giáo, những người không đảng phái và đảng phái chính trị.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Quốc hội Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi: Quốc hội đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Thắng lợi đó là mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho Nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến, kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam còn nhiều khó khăn chồng chất, Nhân dân ta vừa thoát khỏi ách nô lệ nhưng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quyết định tổ chức Tổng tuyển cử và cuộc Tổng tuyển cử thành công là một quyết định sáng suốt, kịp thời, nhạy bén chính trị và khoa học, thực tiễn sâu sắc. Thắng lợi đó khẳng định đường lối, chủ trương của Đảng ta đúng đắn, sáng tạo, thể hiện khát vọng được độc lập, tự do của Nhân dân Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đã khẳng định niềm tin của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của Nhân dân ta. Đồng thời, đó cũng là biểu thị khát vọng dân chủ của Nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu tại kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên, là: “… kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già, trẻ, lớn, bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”.
Tại cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên này, tỉnh Đắk Lắk có 02 người trúng cử đại biểu Quốc hội gồm: ông Y Ngông Niê Kđăm, Y sỹ cán bộ quân y mặt trận Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk và ông Y Wang Mlô Duôn Du, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk.
Đại biểu Y Wang Mlô Duôn Du sau đó tiếp tục tái cử đại biểu Quốc hội khóa II (1960-1964), khóa III (1964-1971) và khóa IV (1971-1975), giữ các chức vụ là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ.
Đại biểu Y Ngông Niê Kđăm sau tiếp tục tái cử và tham gia liên tục tái cử đại biểu Quốc hội các khóa II, III, IV, V, VI, VII, VIII và IX, ông chính là đại biểu có thời gian tham gia hoạt động Quốc hội lâu nhất (51 năm 6 tháng 14 ngày). Trong thời gian trên, ông liên tục được phân công giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Quốc hội như: Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội khóa I, Ủy viên Ban Thường vụ Quốc hội khóa (II, III, IV, V và VI), Ủy viên Hội đồng Nhà nước (khóa VII, khóa VIII) và Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa IX.

Nhân dân Thị xã Buôn Ma Thuột diễu hành mừng ngày bầu cử Quốc hội của Nước Việt Nam thống nhất năm 1976

Phụ nữ Ê đê bỏ phiếu bầu Quốc hội tại buôn Akŏ siêr, Thị xã Buôn Ma Thuột, 25/4/1976

Hòm phiếu của phường Thống Nhất, nơi đồng chí Mười Nguyên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk, đồng chí Y Blốc Êban, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh và đồng chí Y Ngông Niê Kđăm, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh đã đến bỏ lá phiếu đầu tiên bầu Quốc hội vào lúc 07 giờ sáng ngày 25/4/1976 tại trường phổ thông cấp 2 (trường Bồ Đề cũ), số 01 đường Phan Bội Châu, Thị xã Buôn Ma Thuột.

Thẻ cử tri: của ông Ama Thương (Siu Pui), nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk

Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk khóa X
Gần 80 năm, từ ngày Tổng tuyển cử đầu tiên 06/01/1946, từ Quốc hội khóa I đến khóa XV, cùng với Nhân dân cả nước, Nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Lắk đã hăng hái tham gia các cuộc Tổng tuyển cử bầu những cá nhân tiêu biểu tham gia làm đại biểu Quốc hội, đó là những đại biểu được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, toàn tâm toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân thể hiện ý chí, nguyện vọng và khối đại đoàn kết các dân tộc của quê hương Đắk Lắk giàu truyền thống cách mạng.
Thông qua việc thực hiện các chức năng: xây dựng pháp luật, giám sát tối cao, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện hoạt động đối ngoại Nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk và từng đại biểu các khóa đã góp phần tích cực vào việc tiếp tục đổi mới, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả và thực chất hơn, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguồn: - Tài liệu tuyên truyền của Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương; Ban Tuyên giáo và Dân vận tỉnh Đắk Lắk;
- Hình ảnh, hiện vật tại Bảo tàng Đắk Lắk.
GDTT

