KHU CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN TỈNH ĐẮK LẮK (1965 – 1975), DẤU ẤN LỊCH SỬ QUAN TRỌNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TỈNH ĐẮK LẮK

Từ năm 1965 đến 1975, Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk đóng vai trò là căn cứ địa cách mạng, trung tâm đầu não của tỉnh, đã đi vào lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk như một dấu son chói lọi phản ánh trung thực sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị, trực tiếp là Tỉnh ủy Đắk Lắk đối với lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Đắk Lắk anh hùng.

Di tích lịch sử quốc gia Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) thuộc địa phận huyện Krông Bông với các điểm tiêu biểu như: Cơ quan Tỉnh ủy, Địa điểm tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ III, Địa điểm đứng chân của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy nằm ở buôn Đăk Tuôr, xã Čư Pui; Địa điểm tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IV ở buôn M’nang Dơng, xã Yang Mao và Đại hội Đảng bộ lần thứ V ở buôn H’Ngô A, xã Hòa Phong, huyện Krông Bông. Ngoài ra, các ban, ngành, lực lượng vũ trang của tỉnh đều nằm trên các xã Hòa Phong, Hòa Lễ, Čư Drăm, Čư Pui, Yang Mao mà trung tâm là khu vực Đăk Tuôr, xã Čư Pui, huyện Krông Bông.


Từ năm 1965 đến 1975, Cơ quan Tỉnh ủy cùng các cơ quan, ban, ngành và lực lượng vũ trang đã lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng tỉnh Đắk Lắk bằng chủ trương, sách lược, biện pháp cụ thể, phương pháp cách mạng đúng đắn qua từng thời kỳ, từng giai đoạn kết hợp chặt chẽ ba thứ quân, đánh địch bằng ba mũi giáp công trên ba vùng chiến lược, kết hợp quân sự, chính trị để giành thắng lợi cuối cùng, cụ thể:


Thời kỳ chống “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, quân dân Khu căn cứ nói riêng và quân dân toàn tỉnh Đắk Lắk đã vượt qua nhiều gian khổ ác liệt, giữ vững thế chủ động tấn công địch. Trong cuộc tổng tiến công nổi dậy tết Mậu Thân, cùng với những đòn tấn công mạnh mẽ, liên tục, chiếm lĩnh nhiều mục tiêu, bám trụ nhiều ngày. Quân dân khu căn cứ và các huyện, thị xã tỉnh Đắk Lắk đã giáng một đòn mạnh mẽ vào chế độ Mỹ - Ngụy, đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ. Đưa phong trào đấu tranh cách mạng miền Nam chuyển sang một giai đoạn mới: Giai đoạn các lực lượng vũ trang chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường.


Từ năm 1969 đến năm 1972, quân dân vùng căn cứ kháng chiến đã anh dũng, kiên cường đấu tranh, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ, góp phần quan trọng đánh thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ Ngụy.


Thời kỳ 1973 – 1975, trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, những thử thách gay go, ác liệt, nhất là đối mặt với những âm mưu, thủ đoạn đánh phá của Mỹ - Ngụy, các cán bộ, chiến sỹ, nhân dân ở Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) không những bám trụ được mà còn anh dũng kiên cường xây dựng, bảo vệ căn cứ kháng chiến, giành dân, mở rộng vùng giải phóng, chuẩn bị và cung cấp sức người, sức của cho chiến trường. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh làm tốt cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử mùa Xuân 1975, thống nhất nước nhà.


Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 – 1975) là đầu mối của nhiều tuyến hành lang trọng yếu thuộc đường hành lang chiến lược Bắc – Nam, Đông – Tây, bảo đảm sự chỉ đạo thông suốt của tỉnh, của Trung ương, giữ vững đầu mối giao thông liên lạc, vận chuyển vũ khí và đưa đón cán bộ, bộ đội từ Khu V vào miền Đông Nam bộ, tạo cơ sở vật chất và cán bộ giúp đỡ cho các tỉnh bạn ở phía Nam như Quảng Đức và một phần Lâm Đồng; đảm bảo các đường vận chuyển hàng viện trợ cho các tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.


Khu căn cứ còn là nơi tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ III (7/1966) tại Ea Plây, buôn Đăk Tuôr, xã Čư Pui, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (4/1969) tại núi Yang Mao, buôn M’nang Dơng, xã Yang Mao và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (10/1971) tại vùng núi cao Čư Dang Klơ, buôn H’Ngô A, xã Hòa Phong, huyện Krông Bông. 



Các cán bộ, chiến sĩ, đảng viên của Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) ngày đêm sát cánh với đồng bào các dân tộc để chỉ đạo đấu tranh, tổ chức xây dựng căn cứ, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường trong việc phát triển sản xuất và hậu cần nhằm đáp ứng về lương thực, thực phẩm, vũ khí tự chế (bàn chông, thủ pháo, lựu đạn) và quân tư trang, … phục vụ cho chiến trường.

Mặc dù trong điều kiện vô cùng khó khăn gian khổ, nhưng việc chăm sóc sức khỏe, tổ chức văn nghệ, thông tin tuyên truyền, bình dân học vụ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người, giải quyết nạn “đói, đau, lạt, rách” cho cán bộ, chiến sỹ, đồng bào các dân tộc tại vùng căn cứ kháng chiến vẫn được Tỉnh ủy, các cơ quan, ban, ngành hết sức chú ý nhằm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, không ngừng cải thiện đời sống, sức khỏe, văn hóa và tinh thần, trình độ cho nhân dân vùng căn cứ. 


Xây dựng Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) cũng chính là xây dựng cơ sở chính trị vững chắc trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các dân tộc Êđê, M’nông đã củng cố được chính quyền cách mạng; xây dựng các đoàn thể quần chúng; xây dựng Đảng; đồng thời, đã tổ chức công tác bố phòng xây dựng làng chiến đấu, phát triển chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích rộng khắp và hiệu quả đã làm nên sức mạnh tổng hợp của toàn quân, toàn dân chống Mỹ cứu nước, góp phần làm quan trọng vào thắng lợi của cách mạng tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.



Một số vũ khí tự tạo của người Ê đê, Mnông ở Khu căn cứ kháng chiến 


Chiến tranh đã qua đi nhưng Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) vẫn mãi là dấu ấn lịch sử quan trọng, chứa đựng truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân các dân tộc Đắk Lắk. Đặc biệt là người M’nông, Êđê ở vùng căn cứ kháng chiến đối với Đảng, với cách mạng không gì lay chuyển nổi. Trong những năm tháng ác liệt, không có ngày nào trên mảnh đất Krông Bông không hứng chịu cảnh đánh phá ác liệt của kẻ thù cả về bom đạn và chiến tranh tâm lý. Mặc cho địch càn quét, đánh phá khốc liệt, triền miên, kể cả hủy diệt bằng bom B52, đặc biệt là rải chất độc hóa học, hủy diệt nương rẫy, hoa màu khiến cho đồng bào có cuộc sống vô cùng cực khổ, đói, đau, lạt, rách ròng rã, sức người kiệt quệ; mặc cho những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, chiêu hồi, chiêu hàng rất thâm độc… Nhưng với tấm lòng sắt son thủy chung, với ý chí và nghị lực cách mạng phi thường, đồng bào các dân tộc không nao núng, vừa đánh địch, vừa sản xuất, vừa hết lòng tham gia kháng chiến, bảo vệ căn cứ cách mạng, bảo vệ các cơ quan đầu não của tỉnh. Trực tiếp gắn bó, chiến đấu, công tác cùng với sự trưởng thành của Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) đã xuất hiện những con người tiêu biểu, những anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân như: Đồng chí Y Ơn, Y Thuyên (dân tộc M’nông), đồng chí Võ Sanh (tức Ama Tồn), đồng chí Lê Hữu Kiển, Má Hai (liệt sĩ – anh hùng lực lượng vũ trang Huỳnh Thị Hường),...


Khu căn cứ kháng chiến tỉnh Đắk Lắk (1965 - 1975) là một trong những địa chỉ đỏ, góp giáo dục về ý chí quật cường, tinh thần cách mạng cao cả, truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ ở Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung.


GD&TT