HỒI ỨC VỀ XE LAM TRÊN ĐƯỜNG PHỐ BUÔN MA THUỘT VÀ CHIẾC XE LAM TRƯNG BÀY TẠI BẢO TÀNG ĐẮK LẮK
Nơi tôi sinh ra, lớn lên có tên gọi thân quen là Chợ Nhỏ (Cổng số một) - cách ngã 6 (tên gọi là Trụ đèn ba ngọn ngày xưa) khoảng 1 km, hiện nay là đoạn đường Nguyễn Viết Xuân, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột. Một điều vô cùng đặc biệt khi nhắc đến xóm Chợ Nhỏ, người dân còn gọi thân thương bằng tên khác – Xóm xe lam. Vì hầu hết trong xóm nhà nào cũng có xe lam chạy kinh doanh khách công cộng ở cự ly gần (một nghề rất phổ biến, thuận tiện trong giao thông thời điểm bấy giờ).
Xóm này có gia đình hai đời lái xe lam và còn sửa xe lam cho nhiều nơi khác, họ sửa xe lành nghề, sáng tạo tới mức được dân xe lam gọi vui là “nghệ nhân”. Những năm tháng sau giải phóng, đồ phụ tùng thay thế không nhập khẩu được nên rất khan hiếm, do đó, chính những bác tài xế kiêm luôn việc tự sửa chữa, độ chế, lắp ghép từ những chiếc xe cũ hoặc các dòng xe khác có cùng chủng loại. Nhờ đó, những chiếc xe cũ kỹ vẫn lăn bánh phục vụ đời sống dân sinh trong khi đất nước mới bước ra khỏi chiến tranh.
1. Hoài niệm về những chiếc xe lam quen thuộc trên đường phố Buôn Ma Thuột trước năm 1975.
Trước năm 1975, Buôn Ma Thuột chỉ là tỉnh lỵ nhỏ với vài ba con đường chính. Một con đường được coi là xương sống chạy xuyên tâm theo hướng Bắc Nam. Một điểm đặc biệt con đường mà thế hệ 6X, 7X đều nhớ như in là rất nhiều cây muồng hai bên đường. Mỗi mùa sâu, nhộng bướm của cây muồng đều là kỷ niệm của rất nhiều thế hệ. Đây cũng là quốc lộ 14 có đoạn mang tên Độc Lập (từ ngã sáu về cổng số 2 – Cầu trắng). Có đoạn mang tên Tự Do (từ ngã sáu ngược lên cây số 3). Vào khu trung tâm chợ cũng chỉ vài con đường chính: Ama Trang Long, Quang Trung, Phan Bội Châu, Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Lý Thường Kiệt, Y Jút, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết... Phương tiện đi lại trên đường phố chủ yếu có xe đạp; xe gắn máy loại phân khối nhỏ như Honda Damme dành cho nữ, Honda SS67 dành cho nam; xe máy đạp có Vélo Solex, Mobylette; còn phương tiện công cộng thì có xích lô đạp, xích lô máy, xe ngựa và xe lam.
Những đô thị nhỏ như Buôn Ma Thuột ngày đó không có xe buýt, xe lam là phương tiện giao thông công cộng chủ yếu.
Ngoài hai bến xe cố định ở hai đầu đi và đến, theo lộ trình được quy định, hành khách có thể xuống bất cứ nơi nào chứ không cần phải đến trạm như xe buýt vì xe lam không có trạm. Bất cứ lúc nào, khi ta muốn đi thì chỉ cần ra sát vệ đường giơ tay vẫy là xe lam sẽ ngừng lại để khách bước lên nếu xe còn chỗ; nếu không khách chỉ cần đợi chuyến sau. Người buôn bán có thể chất quang gánh, bao và một số thứ lỉnh kỉnh trên nóc xe - điều mà xe buýt không thể có được.
Hồi đó, lộ trình xe lam hầu như chỉ theo trục lộ Bắc Nam, có mấy bến được quy ước điểm đầu, điểm cuối. Ví như một điểm ở cầu Trắng (cổng số 2) thường có xe đậu. Ai muốn đi chợ Buôn Ma Thuột thì ra xe và điểm cuối là bến xe chợ. Xa hơn còn có các bến Duy Hòa (Hòa Khánh), cầu 14 (Hòa Phú) phía Nam hoặc Đạt Lý (Hòa Thuận) phía Bắc theo đường 14 hay Trung Tâm tình thương (Hòa Đông) phía Đông theo đường 21 (nay đường 26).
Xe lam đưa đón học sinh (Ảnh: Internet)
Thiết kế của xe lam chở khách khá đặc biệt, chia làm hai “toa” hẳn hoi. Phần đầu xe là nơi bác tài điều khiển càng lái (giống như ghi-đông xe gắn máy). Dưới ghế ngồi của bác tài là thùng chứa máy xe, hễ xe chết máy hay “xịch đụi” là bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên lên, rồi giật dây hoặc đạp cần cho máy nổ. Có khi phải tra dầu, chùi bu-gi cho máy xe. Tuy thùng sau xe được gắn để chở khách, nhưng nếu thùng sau hết chỗ, các bác tài sẵn sàng ngồi khép nép lại một tí để có thể chở thêm được 2 khách ngồi 2 bên. Xe thì thiết kế cho 8 - 10 người ngồi nhưng khi đến Việt Nam, cũng như bao loại xe khác, xe lam vẫn phải “cõng” một số lượng khách gấp đôi, có khi gấp 3 trọng tải cho phép. Khách ngồi trên hai hàng ghế dài ở khoang sau, ngồi chen lên khoang lái, và leo cả lên trên nóc nữa… Xe lam ngoài tác dụng chở khách còn có tác dụng chở hàng. Kỳ thực nó được nhập về nước ta trong thời kỳ đó dưới hình thức không đóng thùng và tùy công năng chuyên chở sẽ được đóng thùng sau khi nhập. Tên gọi “xe lam” bắt nguồn từ tên gọi của dòng sản phẩm xe 3 bánh Lambro hay Lambretta của Ý do công ty cơ giới Innocenti chế tạo. Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào Việt Nam vào giữa thập niên 1960 để thay thế xe thổ mộ (xe ngựa kéo) vẫn còn được lưu hành vào khoảng thời gian đó.
Trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc vào những năm đầu 1960 thì việc sở hữu được một chiếc xe lam cũng không phải là điều dễ dàng, dù nghề lái xe lam mang lại nhiều lợi nhuận. Giá một chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng (Mọi người hay nói vui: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”).
Bến xe lam cây số 3 (Ảnh: Internet)
Thập niên 1950, người Buôn Ma Thuột vẫn thấy xe ngựa. Từ thập niên 1950 sang 1960 thì xích lô đạp và xích lô máy nở rộ, sau đó là đến xe lam. Số lượng xe lam riêng tại Buôn Ma Thuột là vài trăm chiếc xe vào đầu thập niên 1960, sang thập niên 1970 thì tăng lên đến con số ngàn chiếc.
Sau 1975, các phương tiện cơ giới khác bị thiếu xăng hoặc thiếu phụ tùng thay thế không sử dụng được, xe lam trở thành phương tiện phổ biến, rẻ tiền, bước vào thời kỳ rực rỡ nhất. Xe lam, trong hồi ức của nhiều người thành thị vẫn là một thứ dư vị khó phai, với những tiếng “bành… bành…’’ đầy quen thuộc.
2. Câu chuyện về chiếc xe lam hiện vật được trưng bày tại Bảo tàng Đắk Lắk.
Là một câu chuyện hết sức tình cờ và thú vị.
Ngày đó xe lam không còn được phép lưu hành trên đường phố. Hầu hết đều được bán sắt vụn hoặc có gia đình còn chút lưu luyến chưa bán theo hình thức cân kí vì nó gắn bó và rất đỗi gần gũi, thân thương với đời sống của chủ nhân sau nhiều năm. Với ý tưởng ban đầu là tìm kiếm và sưu tầm một chiếc xe lam còn tương đối nguyên vẹn (còn sử dụng được càng tốt). Anh em trong tổ (lúc chưa thành lập phòng) Sưu tầm chúng tôi, sau thời gian dài tìm kiếm, hỏi han thì cũng có được nguồn tin làm anh em rất phấn khởi như “bắt được vàng”: Có một gia đình ở khu vực từ km3 hay đến km5 còn lưu giữ một chiếc xe lam khá nguyên vẹn. Ngay lập tức, chúng tôi tìm đến nhà ông Phan Xuân Dương, số nhà 235/15 đường Nguyễn Văn Cừ, thành phố Buôn Ma Thuột. Khi gặp, trò chuyện cùng ông, anh em sưu tầm thật sự quá vui mừng vì xe còn hoạt động được và đặc biệt, chiếc xe lam này còn tham gia đóng góp trong việc tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật nội, ngoại thành. Sau khi bàn bạc và đi đến thông nhất, ông Dương đồng ý giao lại cho Bảo tàng Đắk Lắk lưu giữ ngày 04/11/2005 với giá 1.100.000 đồng (một triệu một trăm ngàn đồng).
Xe lam của ông Phan Xuân Dương trưng bày tại Bảo tàng Đắk Lắk
Ông cho biết, xe này do ông mua lại của người đồng bào dân tộc Ê đê tại buôn Ea Rin, xã Čuôr Đăng vào năm 1970. Sau khi mua về ông dùng để chở hàng hóa, khách công cộng thuộc phân bố thị xã, sau này thuộc hợp tác xã vận tải Quyết Tiến. Đặc biệt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ ông đã dùng xe để chở hàng hóa, lương thực, thuốc men, tài liệu tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật trong vùng nội tuyến thị xã Buôn Ma Thuột trong đó có bà Lưu Thị Bê, bà Nghĩa, cô Phượng... và một số các đồng chí khác đã từng được ông chở đi hoạt động từ cây số 19 quốc lộ 26 vào thị xã và ngược lại. Sau khi có chủ trương cấm lưu hành, xe được cất giữ cẩn thận, đến ngày 04/11/2005 ông để lại cho Bảo tàng Đắk Lắk lưu giữ.
Ngày nhận xe lam về, anh em sưu tầm không biết lái phải nhờ ông Dương lái về Bảo tàng Đắk Lắk trong sự ngỡ ngàng đến thú vị của chúng tôi và hầu hết những người đi đường hôm ấy.
Khi Bảo tàng Đắk Lắk nhận về xe đã cũ, không thường xuyên được sử dụng và vì điều kiện trang thiết bị bảo quản còn nhiều hạn chế nên sau một thời gian nhiều chi tiết của xe bị hư hỏng khiến cho xe không vận hành được.
Đến ngày 30/10/2014, Công ty trách nhiệm hữu hạn Thắng Trường, do ông Nguyễn Đình Thắng - Giám đốc, ông Trần Văn Hương - giáo viên trường Cao đẳng nghề Thanh niên dân tộc Đắk Lắk hợp tác với Bảo tàng Đắk Lắk tiến hành tu sửa phục chế xe lam, với các hạng mục: phần động cơ, phần cầu, bánh xe, hệ thống phanh, hệ thống điện, thân vỏ xe. Ngày 15/12/2014, việc tu sửa hoàn thành và đưa ra hội đồng nghiệm thu. Tuy nhiên, phụ tùng rất hiếm và thợ lành nghề về loại xe này không còn nên xe lam không thể chạy được lâu. Hiện tại, xe được trưng bày tại Bảo tàng Đắk Lắk để khách tham quan ôn lại những kỷ niệm và giúp thế hệ trẻ thêm hiểu, hình dung về một phương tiện đã tồn tại, gắn bó với nhiều thế hệ cha anh.
Với quan điểm bảo tàng học hiện đại, không còn là “cấm sờ vào hiện vật”, Bảo tàng Đắk Lắk không chỉ đơn thuần đưa những hình ảnh, chú thích và những bài thuyết minh thô cứng mà còn là giáo dục và trải nghiệm; tương tác, khám phá, thu hút đông đảo công chúng, nhất là các em học sinh đến tham quan, học tập...
Dự kiến thời gian tới sẽ đề xuất đơn vị xem xét, đầu tư kinh phí, sửa chữa xe lam thật hoàn chỉnh, có thể vận hành an toàn phục vụ khách tham quan trải nghiệm. Khi được ngồi trên xe lam chạy quanh khuôn viên Bảo tàng Đắk Lắk khách tham quan được nghe thuyết minh viên kể về những lần các cô chú dùng xe này bí mật tiếp tế hàng hóa, lương thực, thuốc men, tài liệu mật... chắc chắn sẽ làm nên một chuyến tham quan trải nghiệm thú vị và bổ ích đối với du khách.
Ama Nô