CUỘC VƯỢT NGỤC CỦA ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH Ở NHÀ ĐÀY BUÔN MA THUỘT
Nguyễn Chí Thanh (1914 - 1967) tên thật là Nguyễn Vịnh sinh ngày 01/01/1914, quê làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân, nhưng thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.
Năm 17 tuổi, ông đã cùng một số thanh niên tá điền chống lại bọn cường hào ở địa phương, tham gia phong trào cách mạng và được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương tháng 7/1937 và được cử làm Bí thư chi bộ.
Từ thuở nhỏ, Vịnh đã có lòng yêu nước, căm thù sâu sắc bọn giặc Pháp cướp nước ta. Tuy vậy, đến ngoài 20 tuổi, Vịnh vẫn chưa tìm thấy con đường cứu nước chân chính. Chính vì thế, người thanh niên yêu nước ấy quyết tâm đi tìm con đường chân lý đấu tranh để đánh đuổi kẻ thù.
Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Nghe nói mặt trận nhân dân ở bên Pháp “là cộng sản”, không rõ thực hư thế nào, Vịnh bèn rủ bạn là Phạm Oanh lên Huế tìm cụ Phan Bội Châu, hỏi cho rõ tình hình. Tại nhà cụ Phan Bội Châu, Vịnh và Oanh may mắn được gặp đồng chí Phan Đăng Lưu vừa ở tù ra. Cuộc gặp gỡ với Phan Đăng Lưu, nhất là cuộc gặp gỡ với Nguyễn Chí Diễu đánh dấu bước đầu giác ngộ cách mạng của Nguyễn Vịnh. Vừa mới giác ngộ cách mạng, Vịnh đã tích cực tham gia phong trào Mặt Trận dân chủ Đông Dương do Đảng phát động. Trải qua thử thách trong đấu tranh chính trị, Nguyễn Vịnh tỏ ra xứng đáng là chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân. Tháng 7 năm 1937, Nguyễn Vịnh được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Tháng 11 năm 1937, một Chi bộ của Đảng cộng sản được thành lập ở huyện Quảng Điền (cũ). Nguyễn Vịnh được cử làm Bí thư của Chi bộ.
Cuối năm 1938, Nguyễn Vịnh bị mật thám bắt. Chúng giam anh ở nhà lao Huế, sau đó anh bị đưa ra tòa và bị kết án 4 tháng tù. Đầu năm 1939, Nguyễn Vịnh hết hạn tù. Vừa ra tù, anh hoạt động ngay và được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên.
Sau thất bại ngày 01 tháng 5, Nguyễn Vịnh quyết tâm tổ chức một cuộc đấu tranh khác. Chính vì thế, hồi 20 giờ ngày 12 tháng 7 năm 1939, anh đã đến vườn hoa gần cầu Tràng Tiền bên bờ sông Hương để giao nhiệm vụ. Sau khi gặp và làm việc với đồng chí Trần Hồng Chương xong, anh chia tay rồi nhảy lên xe đạp đi qua cầu Tràng Tiền. Đi đến đầu bên kia cầu Tràng Tiền thì anh bị bọn cảnh sát bắt. Khi bị bắt, anh có mang theo tài liệu bí mật trong người. Thừa lúc bọn cảnh sát sơ ý, anh đã tung tài liệu ra đường. Về sau, bọn mật thám nhặt được tài liệu đó, chúng biết chắc chắn đó là tài liệu của anh, chúng buộc anh phải nhận. Nhưng anh kiên quyết không chịu nhận. Nguyễn Vịnh bị nhốt kín 3 đêm 2 ngày tại Bốt Sen đầm Huế, không được ăn uống gì. Mặc dù Nguyễn Vịnh không nhận bất cứ "tội" nào mà bọn mật thám buộc cho anh, tòa án Nam Triều ở tỉnh Thừa Thiên vẫn kết án anh hai năm tù giam. Trong thời gian bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, anh nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng. Anh tổ chức việc học tập cho anh em tù chính trị trong nhà lao để giúp anh em giữ vững tinh thần chiến đấu, nâng cao trình độ chính trị lý luận và kinh nghiệm công tác cách mạng.
Bị giam trong nhà lao Thừa Phủ, Nguyễn Vịnh luôn luôn nghĩ đến các đồng chí và đồng bào đang sống và hoạt động ở bên ngoài. Giữa năm 1940, do tổ chức và lãnh đạo đấu tranh trong nhà lao Thừa Phủ, Nguyễn Vịnh bị tăng án và đày đi Lao Bảo. Ở Lao Bảo, anh cũng tổ chức và lãnh đạo anh em tù đấu tranh chống bọn chúa ngục. Vì vậy, bọn thống trị lại đày anh lên Buôn Ma Thuột.
Sau khi bị bắt lần thứ hai, nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1939 – 1945), Nguyễn Vịnh đã có ý nghĩ vượt ngục, vì anh cho rằng khả năng đấu tranh chính trị hợp pháp không còn nữa. Anh muốn thoát ra khỏi nhà lao để trở lại hoạt động cách mạng bí mật. Chiến tranh ngày càng ác liệt, đế quốc Pháp bị Hít-le đánh bại, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, Mặt trận Việt Minh ra đời do đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi cứu nước..., tất cả những sự kiện đó đều thôi thúc anh. Một đằng là thời cơ thúc bách nổi dậy chiến đấu giành độc lập cho nước nhà, một đằng là sự thiếu thốn cán bộ cách mạng để lãnh đạo phong trào quần chúng; trước tình hình đó, người chiến sĩ cộng sản kiên cường có ý thức trách nhiệm đối với phong trào lẽ nào cam chịu để cho quân thù giam hãm mà không tìm cách tháo củi xổ lồng ra hoạt động trở lại? Nguyễn Vịnh có ý định vượt ngục từ lâu nhưng anh chưa có cơ hội để thực hiện ý định đó. Cơ hội đó đã đến khi bọn thống trị chuyển anh đến Nhà đày Buôn Ma Thuột. Đến Nhà đày Buôn Ma Thuột, Nguyễn Vịnh được bọn chúa ngục sắp xếp cho đi làm những công việc ngoài Nhà đày. Bọn chúa ngục ở đây nghĩ rằng Nguyễn Vịnh chẳng bao lâu nữa thì hết hạn tù, chắc là anh không có ý vượt ngục; vì vậy chúng sắp xếp anh vào tốp những người đi vào rừng lấy củi. Nhưng Nguyễn Vịnh thì nghĩ khác. Anh nghĩ rằng dù hết hạn tù thì bọn thống trị cũng chẳng để cho anh tự do. Chúng sẽ chuyển anh đến một trại tập trung. Đến đó chưa chắc có điều kiện để trốn ra khỏi trại. Chi bằng vượt ngục ở đây là hơn. Vì vậy, anh bắt tay vào việc chuẩn bị vượt.
Nhà đày Buôn Ma Thuột được xây dựng kiên cố bao bọc xung quanh là bốn bức tường cao 4 mét, dày 40 cm, bên trên còn bọc thép gai chằng chịt cao tầm 2 mét, bốn góc có 4 vọng gác lính canh gác 24/24, đèn pha chiếu sáng ban đêm không khác gì ban ngày. Vì thế, tù nhân khi bị giam ở Nhà đày Buôn Ma Thuột khó bề trốn thoát vượt ngục “Một con kiến cũng không thể lọt được ra ngoài”. Tù nhân muốn trốn thoát hay vượt ngục chỉ có một cách duy nhất là lợi dụng thời cơ khi đi lao dịch ở bên ngoài Nhà đày. Đồng chí Vịnh được bọn chúa ngục sắp xếp làm các công việc bên ngoài Nhà đày, đây chính là thời cơ để vượt ngục để trở về với Đảng tiếp tục hoạt động. Vì thế, Nguyễn Vịnh đã bàn cách trấn áp lính canh để vượt ngục.
Theo trích dẫn được biên tập trong “Những ký ức về Nhà đày Buôn Ma Thuột” đồng chí Trần Hồng Chương, Tổng Biên tập tạp chí Cộng sản kể lại:
“Đó là vào cuối năm 1941, một trong những năm đen tối nhất của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Tổ đi lấy củi ở trong rừng gồm có 3 người. Ngoài Nguyễn Vịnh ra, còn có hai anh nữa là Lê Tất Đắc và Phan Văn Dứa. Ba anh bàn bạc và nhất trí với nhau về việc tổ chức vượt ngục. Mỗi người chuẩn bị một ít muối, vài bao diêm và một ít thuốc chữa bệnh để phòng đau ốm lúc đi đường. Việc khó khăn nhất đối với các anh là cách giải quyết đối với người lính gác. Người lính Đê hàng ngày vác súng áp giải các anh vào rừng lấy củi tên là Đờ-riu là một thanh niên khoẻ mạnh, chất phác vui tính. Anh ta không ghét "Nhà phạt" (2) nhưng nếu "Ông lớn" (3) bảo đánh hoặc bắn "Nhà phạt" thì anh ta tuyệt đối phục tùng và thi hành ngay tức khắc. Nguyễn Vịnh, Lê Tất Đắc, Phan Văn Dứa bàn với nhau rất nhiều về cách đối phó với Đờ-riu. Cuối cùng các anh tìm ra được một kế hay. Hàng ngày, sau khi lấy củi chất vào đầy xe, các anh trải chiếu ra, một người nằm sấp xuống, hai người kia thay nhau đấm bóp, các anh lần lượt "tẩm quất" cho nhau. Thấy thế, Đờ-riu lấy làm lạ, hỏi các anh, các anh giảng giải cho Đờ-riu nghe về lợi ích của việc "tẩm quất". Nào là hết mệt mỏi, nào là máu chảy đều trong cơ thể, nào là tăng cường sức khoẻ, nào là sảng khoái tinh thần hết mọi bệnh tật... Ban đầu Đờ-riu không tin, nhưng về sau thấy ba người ngày nào cũng "tẩm quất" cho nhau, tẩm quất xong thì khen là kết quả rất tốt, cho nên Đờ-riu cũng muốn thử xem sao. Đờ-riu đồng ý đề nghị của các anh, nằm sấp xuống trên chiếc chiếu để các anh "tẩm quất" cho. Quả nhiên sau khi được "tẩm quất", Đờ-riu thấy trong người khoan khoái dễ chịu. Từ đó, Đờ-riu cũng thích được "tẩm quất" như các anh, hàng ngày khi các anh "tẩm quất". Đờ-riu cũng nằm xuống yêu cầu các anh "tẩm quất" hộ cho mình. Một hôm, Đờ-riu vừa nằm sấp xuống chiếu để được "tẩm quất" thì ba anh đè ra trói lại. Ban đầu Đờ-riu tưởng làm đùa cho vui, cho nên bảo các anh ngừng lại và cởi trói cho mình. Với giọng thân mật, Nguyễn Vịnh bảo người lính Đê:
"Nhà phạt" bị giam ở đây lâu quá rồi! Nhớ cái làng, nhớ cái nhà lắm rồi. Hôm nay "Nhà phạt" về thăm cái làng, về thăm cái nhà đây. "Cà hàn" (4) chịu trói ở đây. Thế nào rồi cũng sẽ có người tới tìm và đem "Cà hàn" về. Chúng tôi phải trói "Cà hàn" lại để cho "Ông lớn" khỏi phạt "Cà hàn". Nếu không trói thì chúng nghi. Nguyễn Vịnh lấy cây súng của người lính Đê tháo ra từng bộ phận một mỗi bộ phận để một nơi, quy lát để một đằng, đạn để một nẻo. Như thế, dù cho người lính cởi được dây trói cũng phải mất thời giờ tìm lắp các bộ phận của súng lại, chứ không thể cầm súng bắn ngay được. Anh cũng không lấy súng mang theo để khỏi mang tiếng là "manh động" và để tránh "khiêu khích" kẻ địch…”.
Mặt khác, Nguyễn Vịnh không lấy súng cũng là để bảo vệ tính mạng cho người lính Đê, vì anh biết rõ mất súng đồng nghĩa là tính mạng người lính khó bảo toàn khi về gặp trình diện với “Ông lớn”, bởi cây súng gắn liền với tính mạng của người lính bản địa. Vượt núi rừng Tây Nguyên, Nguyễn Vịnh cùng hai bạn Lê Tất Đắc, Phan Văn Dứa nhắm hướng mặt trời, tìm đường về xuôi.
Chiều hôm đó, không thấy tốp tù đi lấy củi trở về, bọn chúa ngục lùa tất cả anh em tù vào trại giam cùm lại, rồi cho lính đi lùng sục khắp nơi. Tất cả tù bị giam đều biết rằng Nguyễn Vịnh và hai anh Lê Tất Đắc, Phan văn Dứa đã vượt ngục. Cả thảy đều hồi hộp lo lắng, không biết các anh có đi thoát được không? Sau một ngày vượt ngục các anh đi chung với nhau, bước sang ngày thứ hai thì ba người chia tay nhau mỗi người đi một ngả để đề phòng địch đuổi theo, còn Nguyễn Vịnh đi về hướng Đông Bắc. Nhưng không may Nguyễn Vịnh đã đi lạc hướng vào trại lính của địch và bị bắt trả về giam lại ở Nhà đày sau nhiều trận tra tấn đánh đập dã man. Khi được trả về Nhà đày, lúc này Nguyễn Vịnh được liệt vào danh sách những “tù nguy hiểm” nên chúng nhốt trong nghiêm giam không cho ra ngoài.
Khoảng đầu năm 1943, đồng chí Trần Thông Cảm “được” giam vào Nhà lao 2 (gọi là nhà nghiêm giam - biệt lập riêng đối với năm dãy nhà lao khác nằm trong Nhà đày). Tối đến mỗi người bị cùm một chân, ngày chỉ được đi lại trong phạm vi chiều ngang 20m và chiều dài ước khoảng 80m (kể cả chỗ nằm). Hai tường dày và cao nối nhau tạo nên một góc tù - trên góc là một chòi canh, 24/24 giờ có lính cầm súng đứng gác. Hai bờ tường thấp đấu vào hai tường cao làm thành một nhà giam riêng, nhỏ nằm trong một nhà đày rộng lớn. Mỗi ngày, cơm tù từ nhà bếp do tù nhân nấu mang vào lao 2 chỉ được đưa qua lỗ cửa, cửa không được mở rộng.
Theo lời kể của đồng chí Trần Thông Cảm cựu tù chính trị Nhà đày Buôn Ma Thuột, được trích dẫn trong hồi ức ông viết vào tháng 6 năm 1985 (tổng hợp biên tập trong tập “Những ký ức về Nhà đày Buôn Ma Thuột”):
“Tôi vào lúc này gặp đồng chí Nguyễn Chí Thanh đang lên cơn sốt rét, run lập cập. Người đồng chí gầy và da vàng xạm. Nhưng nụ cười rất tươi. Có nhiều lần, khi nghe trong người sắp lên cơn sốt, đồng chí nghiến răng luyện tập cơ thể bằng nhiều động tác mạnh, toát mồ hôi, lau khô mặc ấm là thôi, không có cơn sốt nữa, đồng chí cười hân hoan thắng lợi.
Một lưu niệm về đồng chí Nguyễn Chí Thanh - tôi không bao giờ quên được là: Từ chỗ bị bệnh sốt rét kinh niên đó, đồng chí có điều kiện để tạo ra những giờ sốt rét giả để che mắt tên lính gác. Đó là câu chuyện mấy tháng trước, khi đồng chí vượt ngục bằng cách trói người lính, nhét giẻ vào miệng, rồi thoát vào rừng sâu. Nhưng đồng chí đã đi lạc hướng, cuối cùng không về được Ninh Hoà mà lại ngược lên biên giới Việt Nam - Campuchia… và bị lính Pháp ở đồn biên phòng bắt lại. Tất nhiên đồng chí phải trải qua tra tấn, bắt nằm xà lim tối tăm và tăng án tù ở. Khi “được” trả về lại nhà lao 2 nghiêm giam anh em liền có kế hoạch bảo vệ đồng chí những lúc tên lính (bị đồng chí Thanh trói) ấy đến gác. Tôi là thanh niên vui tính lại biết ca hát, nên được anh em phân công cùng với 3 thanh niên tù nhân khác, bám riết tên lính để hỏi chuyện, đùa nghịch và dạy hát cho… Cứ cách hai ngày lại một lần gác (một giờ) của nó. Và nhiệm vụ tôi là phải bám tên lính ấy. Trong giờ gác, dù vui gì vẫn hỏi thăm đồng chí Thanh. Nhưng mỗi lần nó đến là bắt gặp đồng chí Thanh lên cơn sốt, trùm kín chăn.
Đến lượt gác thứ sáu, sau khi dò xem tình hình, biết rõ rệt là không có gì oán thù, đồng chí Thanh không “sốt giả” nữa, mà chào hỏi, lập tức reo cười và ôm chầm lấy đồng chí Thanh, nước mắt ứa trào và tiếng nói nghe nghẹn lại ở cổ. Anh em đứng vây quanh lúc này mạnh dạn hỏi: “Mày không thù “nhà phạt” nữa à”.
- Không, không bao giờ, cái nhà phạt Vịnh (lúc đó đồng chí Nguyễn Chí Thanh tên gọi là Vịnh) hắn tốt lắm. Hắn trói được tôi rồi, súng đạn sẵn đấy không giết tôi mà còn để nguyên súng đạn cho tôi. Cho nên, khi tôi trở về đồn vẫn giữ nguyên làm lính, không bị ngồi tù.
Hắn nói với tôi là bất đắc dĩ phải trói. Còn trốn để về làm cách mạng, đem lại tự do sung sướng cho người Kinh và cho cả người Thượng. Cả nhà lao 2 thở phào, nhẹ nhõm!”.
Người lính gác hiểu rằng, bất đắc dĩ lắm các anh mới phải trói trấn áp mình để về hoạt động cách mạng giải phóng cho dân tộc Việt Nam được độc lập, tự do chứ không hề có ý muốn giết hại mình. Vì thế, người lính ấy không thù hấn, oán trách mà ngược lại còn rất nể phục và yêu mến anh sau tất cả những sự việc đã xảy ra. Có thể nói rằng, qua cách nói chuyện ứng xử của đồng chí Vịnh với Đờ-riu đã phần nào gợi mở đến cách thức “kết bạn” và dần dần dẫn đến việc giác ngộ những người lính bản địa ở Nhà đày Buôn Ma Thuột lúc bấy giờ.
Bất kể khi bị giam giữ ở nhà lao nào, Nguyễn Vịnh cũng nêu cao ý chí cách mạng, khắc phục mọi khó khăn, tổ chức học tập, rèn luyện để giữ vững phẩm chất đạo đức cao quý và đặc biệt là chú trọng đào tạo cán bộ cho cách mạng. Đồng thời tổ chức và lãnh đạo đấu tranh chống bọn chúa ngục để bảo vệ quyền lợi hàng ngày của anh em tù chính trị. Đối với những người lính bản địa, anh cho rằng họ chỉ bị mua chuộc lợi dụng và vào thế bất đắc dĩ mới phải làm việc cho Pháp. Vì thế cần có cách ứng xử linh hoạt, hòa nhã, lựa lời để nói chuyện và giác ngộ lôi kéo họ về với hàng ngũ cách mạng. Ngoài ra, anh còn là một người rất yêu thể thao, chăm lo tập thể dục, rèn luyện thân thể, bảo vệ sức khoẻ.
Qua hồi ức của những bạn tù chính trị từng bị giam cùng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Nhà đày Buôn Ma Thuột, có thể khẳng định rằng cuộc đời của Đại tướng luôn là một tấm gương trong sáng về một người cộng sản chân chính, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân và lý tưởng cộng sản vĩ đại. Cho dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào cũng luôn nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng và thái độ lạc quan trước mọi hoàn cảnh kể cả trong lao đày. Là một chiến sĩ cộng sản hết sức kiên cường, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, luôn luôn có một tinh thần tiến công mãnh liệt chống mọi kẻ thù của giai cấp và của dân tộc.
Chú thích:
(1) Nguyễn Chí Diễu đảng viên năm 1930, Bí thư Tỉnh uỷ Gia Định.
(2) Lính Đê gọi người tù là "nhà phạt".
(3) Lính Đê gọi người Pháp là "Ai-bờ-rong" tức "ông lớn"
(4) "Cà hàn" tiếng Đê nghĩa là lính.
Nguyễn Vân