GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐỘC ĐÁO CỦA NHẠC CỤ DÂN GIAN TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI ÊĐÊ

Đồng bào Êđê bản địa ở tỉnh Đắk Lắk là cư dân say mê âm nhạc, có khả năng đặc biệt cả về thẩm âm lẫn trình diễn các loại nhạc cụ. Trong đó, phải kể đến cồng chiêng và âm nhạc cồng chiêng. Cồng chiêng Êđê cũng như các dân tộc khác trên cao nguyên đã làm nên Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới.


Đồng bào Êđê bản địa ở tỉnh Đắk Lắk là cư dân say mê âm nhạc, có khả năng đặc biệt cả về thẩm âm lẫn trình diễn các loại nhạc cụ. Trong đó, phải kể đến cồng chiêng và âm nhạc cồng chiêng. Cồng chiêng Êđê cũng như các dân tộc khác trên cao nguyên đã làm nên Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới. Không chỉ vậy, các nhạc cụ dân gian của vùng đất này cũng tạo nên một “mảng âm nhạc rất độc đáo”. Nhạc cụ dân gian Êđê với nguyên lý cấu tạo đơn sơ, mộc mạc, mang lại bản sắc rất riêng từ những vật liệu như tre, nứa, vỏ bầu, sừng trâu,… nhưng lại gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt cũng như thế giới tâm linh của dân tộc mình. Vậy trong đời sống của đồng bào Êđê có những loại nhạc cụ dân gian gì để phục vụ cho đời sống tinh thần?

Nổi bật và độc đáo nhất trong các nhạc cụ truyền thống của người Êđê là các bộ chiêng. Người Êđê lưu giữ bộ chiêng cổ truyền thống của mình như báu vật nhưng không thể chế tác chiêng được nữa, họ phải đi mua từ những vùng miền khác. Chiêng mua về được gọi theo nguồn gốc xuất xứ thành tên của từng loại chiêng như: čing Lao, čing Juăn để chỉ rõ chiêng đó mua từ Lào, người Việt, … Người Êđê quý nhất là čing Lao vì cho rằng chiêng Lào có pha vàng, bạc, đặc biệt là đồng đen.

Čing K’nah, là bộ chiêng phổ biến nhất. Đây là tên mà hầu hết các nhánh Êđê đều gọi bộ chiêng của mình, một bộ čing K’nah, gồm 10 chiếc. Theo cách gọi và phân biệt của đồng bào dân tộc Êđê bao gồm 3 chiếc chiêng núm với tên gọi theo kích thước từ lớn đến nhỏ như sau: Ana čing (chiêng núm lớn nhất), Moong čing, Mđuh čing (chiêng núm nhỡ), và biểu thị từng thành viên trong gia đình ứng với từng chiếc chiêng như: Čhar (người ông), Ana (người mẹ), Mđuh (người bố),…

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới nên đồng bào Êđê cũng như các đồng bào khác đã chú tâm gìn giữ văn hóa của mình đặc biệt là các dàn chiêng. Từ đó tình trạng “chảy máu” cồng chiêng được khắc phục phần nào. Tuy nhiên, không gian diễn xướng của cồng chiêng thì đang dần bị thu hẹp, bị sân khấu hóa và theo nhu cầu thưởng thức của du khách thập phương khi đến với Đắk Lắk cũng như Tây Nguyên. Phải chăng đây là một đời sống khác của cồng chiêng trong quá trình gìn giữ và bảo tồn nét văn hóa này của đồng bào Êđê?

Ngoài sự độc đáo đã được công nhận của các bộ cồng chiêng thì trong đời sống của đồng bào Êđê còn có các nhạc cụ dân gian khác phục vụ nhu cầu tinh thần khác nhau như:

Čing Kok, (được làm từ hai loại làm bằng gỗ và tre nứa với hai loại âm khác nhau: làm bằng gỗ tiếng chắc, vang to, cộc tiếng; làm từ tre nứa do có thêm phần ống dàn cộng hưởng nằm ngay tại thanh đàn mà tiếng đàn kêu mềm dịu hơn) đây là loại nhạc cụ khá cổ xưa, khi con người chưa biết lấy các đặc trưng cấu tạo, vật liệu chế tác, hình dáng cây đàn để đặt tên. Khi mỗi người diễn tấu một ống, nhạc cụ này mang tên čing kok. Nhưng khi treo buộc các ống đàn ấy thành dàn liền kề nhau để một hoặc hai người diễn tấu, nhạc cụ ấy lại mang tên là đĭng grơng hay đĭng lơng khơng nhạc cụ này thường được dùng để độc tấu giải bày tâm tình hoặc phụ hoạ cho hát kưứt hoặc hát ayray là 2 lối hát dân gian của dân tộc Êđê.

Čing Kram, là nhạc cụ thuộc bộ tự thân vang kết hợp với sự cộng hưởng của cột hơi. Cấu tạo của một čing kram gồm 1 ống tre khô dài khoảng 30cm, đường kính từ 7-9cm; một thanh tre già có độ dài khoảng 40cm, rộng 7cm và một cái dùi bằng gỗ có quấn vải. Theo quan niệm của đồng bào Ê đê, số lẻ là số của sự may mắn nên mỗi bộ čing kram thường có 5, 7, 9 chiếc, hợp lại thành một dàn chiêng. čing kram là nhạc cụ thường xuyên được sử dụng trong các dịp lễ hội của đồng bào.

Gông Kram, là loại đàn mà các dây đàn được lật từ cật của ống tre thân đàn lên. Loại đàn này hiện vẫn đang được sử dụng tuy nhiên số người biết chế tác và sử dụng loại đàn này thường là những nghệ nhân tuổi đã xế chiều.

Đĭng Năm, là nhạc cụ gồm sáu ống nứa dài ngắn khác nhau có đường kính từ 1,5-2,2cm tùy theo kích thước kèn loại lớn hay một đầu ống nứa có mắt bịt kín, đầu kia để hở, được cắm vào vỏ trái bầu khô, hàn kín bằng sáp ong ruồi. Ở đầu ống có mắt cần khoan lỗ thoát âm. Lỗ khoét lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng đến chất lượng âm thanh. Trên thân ống kèn còn dùi một lỗ nhỏ, đây không phải là lỗ phát âm như các nhạc cụ sáo, kèn khác mà là lỗ ngắt âm. Lỗ dùi này chỉ khi gắn xong các ống kèn vào quả bầu định vị thật chuẩn xác rồi căn cứ vào thế bấm của các ngón tay mới dùi lỗ tạo vị trí bấm thuận lợi nhất cho các ngón tay. Đây là loại nhạc cụ có cấu tạo phức tạp nhất, có khả năng diễn tấu phong phú nhưng bị cấm thổi trong nhà vì loại nhạc cụ này chuyên dùng cho đệm hát Ayray khi nhà có tang.

Kni, là một loại đàn tạo âm thanh đặc biệt vừa bằng vỉ kéo là một cật nứa, vừa bằng âm thanh phát ra từ một miếng nối với sợi dây đàn bằng một sợi dây và một miếng tròn nhỏ, cứng thường được làm bằng vảy con Tê Tê. Đàn có một dây và ba phím, thân là một ống nứa nhỏ dài đường kính 2,8cm. Khóa đàn dài khoảng 17cm, vi kéo dài khoảng 46cm, rộng gần 1cm.

Đĭng Tăk Ta, là một loại nhạc cụ khá cổ sơ. Được làm từ một ống nứa nhỏ có khoét lỗ tạo nốt nhạc, một đầu có lưỡi gà được gắn vào vỏ bầu (loại nhỏ). Đây là loại nhạc cụ được dùng khá phổ biến, có thể thổi lúc nào cũng được. Vì tiếng của nó rất rộn ràng thôi thúc nên đĭng tăk ta thường thổi vào buổi sáng sớm để đánh thức bà con trong buôn dậy đi làm.

Đĭng Tŭt, gồm có 6 ống nứa có 1 đầu đốt có kích thước khác nhau tạo nên 6 âm tương ứng với 6 chiếc chiêng bằng của bộ chiêng Knah. Nhạc cụ này chuyên dùng cho phụ nữ thổi trong lễ bỏ mả hay khi nhà có đám tang nên bị cấm thổi trong nhà.

Đĭng Buôt, là một loại sáo dọc dùng để đệm và gây không khí cho hát Muynh của đồng bào dân tộc Êđê. Đĭng buôt thường được sử dụng sau lễ cúng thần hoặc trai gái tỏ tình.

Đĭng Rĭng, là loại nhạc cụ gồm nhiều ống nứa dài, ngắn khác nhau kết hợp lại thành bè, được cố định bằng sợi mây đan kết với nhau. Ống dài nhất khoảng 81cm, ngắn nhất khoảng 49cm, đường kính các ống khoảng 3cm. Cách sử dụng loại nhạc cụ này giống như việc thổi kèn Acmônica. Hai nhánh tộc người Êđê Mdhur và Êđê ADham thường sử dụng nhạc cụ này. Ở các nhóm Êđê khác ít gặp hơn.

Đĭng Gôč, là một loại nhạc cụ độc đáo loại nhỏ, vừa thổi vừa kết hợp với rung bật 1 bộ phận được tách ra giữa thân, giống như bộ phận lưỡi gà ở 1 số nhạc cụ khác.

Đàn Brô, là một loại nhạc cụ dây gẩy có hai dây bằng kim loại và 5 quảng phím có bầu cộng hưởng bằng vỏ bầu. Cần đàn thường làm bằng thân cây lồ ô.

Guat, là một thanh nứa mỏng hai đầu hơi nhọn, tách phần giữa thành một mảnh nhỏ, một bên rời ra khỏi thân. Khi diễn tấu, nghệ nhân ngậm ngang toàn bộ thanh nứa trong miệng. Tay trái cầm gốc kèn, tay phải gảy phần còn lại, dùng vòm miệng làm hộp cộng hưởng. Âm lượng nhỏ, âm thanh đục.

Ky Pah, là một loại tù và thổi ngang có lưỡi gà và có vỗ bật mở 2 đầu để tạo âm, âm lượng lớn chói tai với chức năng chính là để thông tin. Ky pah bị cấm thổi trong nhà. Hiện nay do sừng trâu ngày càng hiếm bởi buôn làng chỉ “năm thì mười họa” mới đâm trâu nên ở Tây Nguyên bây giờ thường làm nhạc cụ này bằng rễ cây muồng đen được tạo từ 2 nửa gỗ tròn sau đó ráp với nhau bằng sợi mây và nhựa cây rừng.

Hầu hết các nghi lễ theo vòng đời người như: lễ thổi tai – đặt tên, lễ cúng sức khỏe, lễ cưới, lễ tang, lễ bỏ mả,… cũng như các nghi lễ nông nghiệp như: lễ động rừng, lễ phát rẫy, trỉa lúa, đưa lúa về kho,… thì âm nhạc cũng như các nhạc cụ dân gian đều đóng góp một vị trí quan trọng.

Trong các nghi lễ truyền thống, nhạc cụ dân gian đã tạo nên không khí rất trang nghiêm, hùng tráng, lúc rộn ràng, sôi nổi, khi êm dịu trữ tình, khu ưu tư, trầm lắng,… Có thể nói nhạc cụ dân gian đã gắn bó mật thiết với đời sống đồng bào Êđê, là một lĩnh vực thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa, sức sống và thế giới tâm linh của họ.

Nhạc cụ dân gian Êđê được ra đời từ trong cuộc sống lao động và sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng. Từ những công cụ đuổi chim, thú giữ trên rẫy (như čing kram) đến những công cụ giải trí sau một ngày lao động vất vả (như đĭng buôt) hay những phương tiện chia buồn với gia đình người quá cố (như đinh năm, đĭng tŭt) và những công cụ dùng để đi săn hoặc hiệu lệnh xung phong trong chiến trận (như ky pah, trống h’gơr) đã trở thành nhạc cụ dân gian của dân tộc Êđê. Nó là một trong những phương tiện nghệ thuật âm thanh có nhiều khả năng để biểu đạt tâm hồn, tư tưởng tình cảm của con người. Thực tế nó đã trải qua một quá trình sáng tạo lâu đời. Có loại do thế hệ ông bà sáng tạo nên. Có loại được hình thành từ cuộc sống lao động và trả lại phục vụ cuộc sống lao động, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Âm nhạc dân gian Êđê đã gắn bó với nghi lễ vòng đời người và vòng cây trồng cùng với các lễ hội truyền thống của cộng đồng. Nó là linh hồn, là sức mạnh tinh thần và bản sắc văn hóa của người Êđê.


Đắc Tứ